Tình hình kinh tế - xã hội tháng 11 và 11 tháng năm 2013
Để từng bước tháo gỡ khó khăn cho nền kinh tế những tháng cuối năm, các sở, ban, ngành, huyện, thành, thị, các doanh nghiệp tập trung chỉ đạo sản xuất nông nghiệp theo kế hoạch; duy trì sản xuất công nghiệp, tích cực tìm kiếm thị trường; đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, thi công các dự án, công trình trọng điểm; quản lý tốt giá cả thị trường, các hoạt động dịch vụ; tăng cường chỉ đạo công tác tuần tra kiểm soát giao thông; tổ chức các hoạt động chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam 20/11;... Kết quả cụ thể ở một số ngành, lĩnh vực như sau:
1. Sản xuất nông nghiệpTrong tháng, thời tiết có mưa, nắng ấm, độ ẩm phù hợp đã thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trên địa bàn tỉnh.
- Về trồng trọt: Ước tính đến hết tháng 11/2013, tổng diện tích Ngô gieo trồng ước đạt 8,6 nghìn ha, giảm 5,7% so với vụ Đông năm trước; diện tích Khoai Lang ước đạt 1,3 ngàn ha, giảm 11,4%; diện tích rau xanh các loại ước đạt 4,1 ngàn ha, tăng 17,5%; diện tích Đỗ tương gieo trồng ước đạt 169 ha;… Nhìn chung, tiến độ gieo trồng cây vụ Đông năm nay giảm so cùng kỳ năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do vụ mùa kết thúc muộn hơn nên ảnh hưởng tới tiến độ làm đất, gieo trồng vụ mới;...
- Về chăn nuôi và hoạt động thú y: Chăn nuôi đàn gia súc, gia cầm trên địa bàn tỉnh nhìn chung ổn định; công tác phòng chống dịch bệnh được duy trì tốt, dịch bệnh phát sinh
[1] được phát hiện và điều trị kịp thời không ảnh hưởng đến đàn gia súc, gia cầm. Hiện nay, các địa phương và ngành chức năng đang tăng cường triển khai công tác tiêm phòng dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm
[2] theo đúng kế hoạch, tổ chức giám sát chặt chẽ diễn biến tình hình chăn nuôi trên địa bàn, kịp thời phát hiện các loại dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm khi thời tiết chuyển mùa.
2. Sản xuất công nghiệpTrong tháng, một số ngành gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm làm ảnh hưởng đến kết quả sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh. Chỉ số sản xuất công nghiệp chung toàn tỉnh tương đương so với tháng trước và tăng 6,3% so với tháng cùng kỳ năm trước.
Nhóm ngành công nghiệp khai khoáng giảm 2,8% so với tháng trước nhưng tăng 17,4% so với tháng cùng kỳ. Sản phẩm chủ yếu giảm so với tháng trước gồm cao lanh và đá khai thác; sản phẩm tăng so với cùng kỳ năm trước tập trung ở nhóm ngành khai thác cao lanh các loại (tăng 82%).
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo tăng 0,7% so với tháng trước và tăng 5,6% so với tháng cùng kỳ. Trong đó, ngành sản xuất giấy và sản phẩm từ giấy tăng 46,19% so với tháng trước và tăng 23,8 % so với tháng 11 năm 2012
[3]; ngành sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại tăng 1,1% so với tháng trước và tăng 4,7 % so với tháng cùng kỳ năm trước
[4]; ngành sản xuất Pin và ắc qui tăng 55,1% so với tháng trước và tăng 59,4 % so với tháng cùng kỳ
[5]. Một số ngành sản xuất giảm so với tháng trước và tăng so với tháng cùng kỳ năm 2012: ngành sản xuất đồ uống giảm 8,3 % so với tháng trước
[6] nhưng tăng 13,8 % so với tháng cùng kỳ; ngành sản xuất hoá chất và phân bón giảm 6,5% so với tháng trước nhưng tăng 2,6% so với tháng cùng kỳ; ngành sản xuất các sản phẩm từ plastic giảm 2,8% so với tháng trước nhưng tăng 12,2 % so với tháng 11 năm 2012. Một số ngành sản xuất giảm so với tháng trước và cùng kỳ năm trước: nhóm ngành công nghiệp chế biến thực phẩm giảm 11,4% và 2,72%; ngành Dệt giảm 2,7% và 1,9%; ngành sản xuất trang phục giảm 5,8% và 3,8%. Ngành sản xuất da và các sản phẩm có liên quan tăng 52,7% so với tháng trước nhưng giảm 45,4% so với tháng cùng kỳ; ngành sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 0,46% so với tháng trước nhưng giảm 17,4% so với tháng cùng kỳ;...
Ngành sản xuất, phân phối điện giảm 4,5% so với tháng trước nhưng tăng 3,7% so tháng cùng kỳ.
Nhóm ngành khai thác, xử lý và cung cấp nước tương đương mức sản xuất tháng trước nhưng tăng 6,7 % so với tháng cùng kỳ.
Sau 11 tháng chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp tăng 6,16% so với cùng kỳ năm trước, trong đó: nhóm ngành công nghiệp khai thác mỏ tăng 6,8%; nhóm ngành công nghiệp chế biến tăng 5,9%; nhóm ngành sản xuất, phân phối điện tăng 11,7%; nhóm ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 7,9%.
3. Vốn đầu tư thực hiệnLà tháng cuối năm, thời tiết thuận lợi để thi công các công trình, hạng mục công trình, do đó nhiều công trình đã được đẩy nhanh tiến độ và hoàn thành theo kế hoạch.
Tổng giá trị vốn đầu tư thực hiện thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý trong tháng ước đạt 166,5 tỷ đồng, so với tháng trước tăng 3,2% và tăng 1,04% so với tháng cùng kỳ năm 2012. Trong đó: vốn ngân sách nhà nước cấp tỉnh ước đạt 111,4 tỷ đồng, chiếm 66,9% tổng số, tăng 4,6% so với tháng trước và tăng 0,8% so với tháng cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp huyện ước đạt 37,1 tỷ đồng, chiếm 22,3% tổng số, tăng 0,9% so với tháng trước và tăng 3,3% so với cùng kỳ; vốn ngân sách nhà nước cấp xã ước đạt 17,9 tỷ đồng, chiếm 10,7% tổng số và giảm so với tháng trước và tháng cùng kỳ năm trước.
Trong tháng có một số công trình đã khởi công và dự kiến khởi công như: đường tránh lũ xã Xương Thịnh - Cấp Dẫn, nhà văn hoá, đường bê tông nông thôn các xã huyện Cẩm Khê; công trình phụ trợ Trường THCS Xuân Lũng, nhà văn hoá khu các xã huyện Lâm Thao;…
Một số công trình đã hoàn thành và dự kiến hoàn thành đưa vào sử dụng trong tháng như: cải tạo nâng cấp đường liên xã Bảo Thanh - Hạ Giáp, đường chiến thắng Sông Lô xã An Đạo, đường giao thông nông thôn xã huyện Phù Ninh; Nhà lớp học 2 tầng Trường THCS Xuân Quang, Nhà điều hành UBND xã Vực Trường, Nhà lớp học 2 tầng 8 phòng Trường THCS Tứ Mỹ, Kênh tưới nội đồng xã Hồng Đà; đường giao thông nông thôn các xã huyện Tam Nông; Nhà điều hành Trường Mầm non xã Phú Khê, Nhà điều hành Trường Tiểu học Phú Khê, đường nội đồng xã Phương Xá huyện Cẩm Khê,…
Tính chung 11 tháng, tổng vốn đầu tư thuộc nguồn vốn nhà nước do địa phương quản lý ước đạt 1.699 tỷ đồng tăng 8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước cấp tỉnh đạt 1.148,6 tỷ đồng tăng 17,1%; ngân sách nhà nước cấp huyện đạt 368,4 tỷ đồng giảm 5,9%; vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cấp xã thực hiện 182 tỷ đồng giảm 9,3%.
4. Thương mại, dịch vụ, giá cảa) Bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
Trong điều kiện nền kinh tế gặp khó khăn, các đơn vị kinh doanh thương mại đã phối hợp với nhà sản xuất, nhà phân phối áp dụng nhiều hình thức khuyến mãi, giảm giá sản phẩm nhằm kích thích người tiêu dùng; bên cạnh đó việc quản lý giá cả và chất lượng sản phẩm được cơ quan chức năng tăng cường do đó tình hình kinh doanh trên địa bàn tỉnh giữ ổn định và chưa có dấu hiệu tăng theo quy luật vào thời điểm những tháng cuối năm.
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội tháng 11/2013 ước đạt 1.570,7 tỷ đồng, tăng 0,9% so với tháng trước. Trong đó, kinh tế cá thể đạt 855,3 tỷ đồng, chiếm 54,4% và tăng 1,1%; kinh tế tư nhân đạt 561,8 tỷ đồng, chiếm 35,8% và tăng 0,8%. Phân theo nhóm ngành kinh tế: thương nghiệp là ngành có tác động lớn đến tổng mức bán lẻ của tỉnh đạt 1.290,7 tỷ đồng, chiếm 82,2% tổng mức, tăng 0,9%. Các ngành còn lại có tốc độ tăng cao hơn nhưng do tỷ trọng nhỏ nên tác động không đáng kể đến tổng mức chung
[7].
Tính chung 11 tháng, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước đạt 15.523,4 tỷ đồng, tăng 13,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế cá thể đạt 7.705,4 tỷ đồng, chiếm 49,6% tổng số và tăng 10,2%; khu vực kinh tế tư nhân đạt 6.149,2 tỷ đồng, chiếm 39,6% tổng số và tăng 11,2%.
b) Xuất, nhập khẩu hàng hoá
Tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu tháng 11/2013 ước đạt 56 triệu USD, giảm 0,18% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế tư nhân đạt 3,8 triệu USD giảm 0,22%; khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 52,2 triệu USD, giảm 0,18% so với tháng trước.
Thị trường hàng hóa xuất khẩu trong tháng chủ yếu gồm: Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản. Trong đó, xuất khẩu sang thị trường Mỹ ước đạt 20,2 triệu USD chiếm 36,1% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu, thị trường Hàn Quốc ước đạt 11,9 triệu USD chiếm 21,3% trong tổng số, thị trường Nhật Bản ước đạt 3,1 triệu USD chiếm 5,5% tổng giá trị hàng hóa xuất khẩu.
Hàng xuất khẩu chủ yếu trong tháng gồm: hàng dệt may 31,5 triệu USD, chiếm 56,3% tổng giá trị và giảm 0,8% so với tháng trước; sản phẩm bằng plastic 18,1 triệu USD, tăng 0,26% so với tháng trước; sản phẩm chè đạt 1.513 tấn, giảm 4,4% so với tháng trước.
Tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu tháng 11/2013 ước đạt 56,1 triệu USD, giảm 0,07% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có tổng trị giá hàng nhập khẩu lớn nhất 38,6 triệu USD, chiếm 68,7% tổng số và tăng 0,11%; khu vực kinh tế Tư nhân ước đạt 11,4 triệu USD (chiếm 20,4% tổng giá trị), tăng 0,75% so với tháng trước.
Thị trường nhập khẩu hàng hóa chủ yếu trong tháng là: Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản. Trong đó, thị trường Hàn Quốc ước đạt 23,7 triệu USD chiếm 42,2% tổng giá trị, thị trường Trung Quốc ước đạt 12,9 triệu USD, chiếm 23% tổng giá trị, thị trường Nhật Bản ước đạt 3,6 triệu USD, chiếm 6,4% tổng giá trị hàng hóa nhập khẩu.
Hàng hoá nhập khẩu chủ yếu trong tháng, so với tháng trước gồm: Hoá chất 8,3 triệu USD tăng 8,8%; chất dẻo nguyên liệu ước đạt 9.001 tấn tăng 5,5%; vải may mặc trị giá 17,3 triệu USD giảm 3,97%; bông xơ ước đạt 3.300 tấn giảm 6,2%; phụ liệu hàng may mặc trị giá 4,3 triệu USD; máy móc, thiết bị phụ tùng khác trị giá 5,5 triệu USD;...
Tính chung 11 tháng, tổng giá trị hàng hoá xuất khẩu ước đạt 553 triệu USD tăng 12,5% so cùng kỳ năm trước. Trong đó, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có giá trị lớn nhất đạt 489,2 triệu USD chiếm 88,5% tổng số tăng 21%; khu vực kinh tế tư nhân 62,7 triệu USD, chiếm 11,3% tổng số giảm 27,4%. Tổng giá trị hàng hoá nhập khẩu ước đạt 554,4 triệu USD, tăng 10,9% so cùng kỳ năm trước; trong đó, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài có giá trị nhập khẩu lớn nhất ước đạt 361,9 triệu USD, chiếm 65,3% tổng số và tăng 17,2% so với cùng kỳ năm trước; khu vực kinh tế tư nhân 116,9 triệu USD, chiếm 21,1% tổng số và tăng 0,2% so với cùng kỳ năm trước.
c) Chỉ số giá tiêu dùng (CPI)
Chỉ số giá tiêu dùng tháng 11/2013 tăng 0,29% so với tháng trước, so với tháng 12/2012 (sau 11 tháng) tăng 5,18% và so với tháng 12 năm trước (sau 1 năm) tăng 5,82%. Chỉ số giá tiêu dùng bình quân mười một tháng năm 2013 tăng 6,16% so với bình quân cùng kỳ năm 2012.
So với tháng trước, qua 11 nhóm hàng thống kê thường xuyên cho thấy, một số nhóm hàng có mức tăng cao hơn bình quân gồm: nhóm hàng hoá và dịch vụ khác tăng 2,06%
[8]; nhóm nhà ở, điện nước, chất đốt, vật liệu xây dựng tăng 0,75%
[9]; hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,33%, trong đó lương thực tăng 0,15%, thực phẩm tăng 0,41%
[10]; ăn uống ngoài gia đình tăng 0,27%. Một số nhóm hàng có mức tăng thấp hơn mức tăng bình quân chung gồm: nhóm thuốc và dịch vụ y tế tăng 0,23%
[11]; nhóm may mặc, giày dép, mũ nón tăng 0,12% so với tháng trước (nhóm hàng may mặc tăng 0,05%), hàng may mặc và mũ nón khác tăng 0,57%. Các nhóm hàng tăng nhẹ so với tháng trước: đồ uống, thuốc lá tăng 0,06%; nhóm thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,02%. Có 2 nhóm hàng giữ ổn định so với tháng trước đó là nhóm bưu chính, viễn thông và nhóm giáo dục. Riêng 2 nhóm giao thông và nhóm văn hóa, giải trí và du lịch có chỉ số giảm so với tháng trước
[12].
Chỉ số giá vàng tháng 11/2013 giảm 0,78% so với tháng trước; giảm 21,1% so với tháng 12/2012 và giảm 20,87% so với tháng cùng kỳ năm 2012; bình quân 11 tháng năm nay giảm 11,21% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số giá đô la Mỹ tháng 11/2013 giảm 0,11% so với tháng trước; tăng 1,71% so với tháng 12/2012 và tăng 1,7% so với tháng cùng kỳ năm 2012; bình quân 11 tháng năm nay tăng 1,45% so với cùng kỳ năm trước.
d. Vận tải hành khách và hàng hoá
Doanh thu vận tải, bốc xếp, dịch vụ vận tải tháng 11/2013 ước đạt 215,7 tỷ đồng, tăng 3,2% so với tháng trước. Trong đó, doanh thu vận tải đường bộ 160,9 tỷ đồng, tăng 2,5%; doanh thu vận tải đường sông 54,8 tỷ đồng, tăng 5,6%.
Vận chuyển hàng hoá trong tháng ước đạt 2.683 ngàn tấn, tăng 5,7% so tháng trước; luân chuyển hàng hoá ước đạt 144,5 triệu tấn.km, so với tháng trước tăng 4,4%. Trong đó, vận tải đường bộ ước đạt 1.690 ngàn tấn vận chuyển tăng 5,1%, luân chuyển hàng hóa đường bộ ước đạt 37,7 triệu tấn.km tăng 2,4%; vận chuyển đường sông ước đạt 992,8 ngàn tấn tăng 6,7%, luân chuyển hàng hóa đường sông ước đạt 106,8 triệu tấn.km tăng 5,2%.
Vận chuyển hành khách đường bộ trong tháng ước đạt 489,8 ngàn hành khách tăng 0,5%, luân chuyển hành khách đường bộ trong tháng ước đạt 55,1 triệu hành khách.km tăng 0,4%.
Sau mười một tháng, sản lượng vận chuyển hàng hoá ước đạt 28,1 triệu tấn tăng 8,2% so với cùng kỳ năm trước; luân chuyển hàng hóa ước đạt 1.468,8 triệu tấn.km tăng 14,6%. Vận chuyển hành khách ước đạt 5,1 triệu hành khách tăng 6,1%; luân chuyển hành khách ước đạt 589,1 triệu hành khách.km tăng 19%.
5. Tài chính - ngân sáchTổng thu cân đối ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh đến hết tháng 10/2013 đạt 2.656 tỷ đồng, vượt 5,8% dự toán; trong đó, thu từ kinh tế nhà nước đạt 941,3 tỷ đồng, chiếm 35,4% tổng số và bằng 83,3% dự toán.
Tổng chi ngân sách nhà nước địa phương đến hết tháng 10/2013 đạt 6.508,5 tỷ đồng, bằng 82,8% dự toán. Trong đó, chi thường xuyên đạt 4.251,3 tỷ đồng, bằng 72,45% dự toán.
6. Một số vấn đề xã hội- Công tác giáo dục: Trong tháng, nhiều nơi trên địa bàn tỉnh đã tổ chức các hoạt động chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11 nhằm tôn vinh những đóng góp của các thế hệ giáo viên nhân dân. Hội khuyến học, Hội cựu giáo chức tỉnh đã tổ chức thành công Đại hội đại biểu nhiệm kỳ 2013 - 2018.
- Công tác y tế: Trên địa bàn tỉnh xuất hiện một số dịch bệnh như sốt rét, tiêu chảy, tay chân miệng... nằm rải rác ở một số địa phương, tuy nhiên ngành y tế đã ổn định được tình hình, đảm bảo sức khỏe cho nhân dân.
Công tác tuyên truyền vệ sinh an toàn thực phẩm luôn được đề cao để nâng cao nhận thức và ý thức của người dân. Trong tháng, đã tổ chức phát thanh trên hệ thống đài truyền thanh các cấp 615 lượt; tổ chức phổ biến kiến thức 18 buổi; tư vấn trực tiếp đến 68 đối tượng; tổ chức in ấn 15 ngàn tờ rơi cấp phát đến tận tay các đối tượng.
Nhằm tăng cường đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, giảm thiểu các vụ ngộ độc thực phẩm, trong tháng, ngành chức năng đã kiểm tra 657 cơ sở kinh doanh và sản xuất thực phẩm, trong đó có 582 cơ sở đạt số cơ sở đạt tiêu chuẩn chiếm 88,6%; số cơ sở vi phạm bị xử lý các hình thức là 75 cơ sở bằng 11,4%.
Hệ thống y tế tiếp tục được củng cố và phát triển, các bệnh viện đa khoa tuyến huyện và liên huyện tiếp tục được đầu tư. Tăng cường công tác chỉ đạo và giám sát dịch bệnh, khám chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, qua đó nhằm kịp thời phát hiện dịch bệnh khi phát sinh; hướng dẫn cách phòng chống, nhất là dịch bệnh chân, tay, miệng; duy trì kiểm tra, giám sát các cơ sở chế biến, vận chuyển và kinh doanh thực phẩm nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm;...
- Các hoạt động văn hoá, văn nghệ, thể thao trên địa bàn tỉnh được tổ chức thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra: tuyên truyền ngày Du lịch thế giới; biểu diễn nghệ thuật phục vụ nhân dân vùng khó khăn; tổ chức thi đấu một số môn thể thao trong chương trình Đại hội TDTT toàn tỉnh lần thứ VII; duy trì tốt các hoạt động thể thao quần chúng; tuyên truyền các hoạt động tôn vinh các nhà giáo nhân ngày 20/11; đăng cai tổ chức giải vô địch bắn cung toàn quốc lần thứ 16 năm 2013...
- Tình hình tai nạn giao thông: Theo thống kê của Ban ATGT tỉnh, tình hình tai nạn giao thông trên địa bàn tỉnh diễn biến khá phức tạp. Chỉ tính riêng từ 15/10 đến 15/11 năm 2013, trên địa bàn tỉnh đã xảy ra 5 vụ tai nạn giao thông và va chạm giao thông làm 5 người chết, 4 người bị thương. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/11, toàn tỉnh xảy ra 64 vụ tai nạn giao thông làm 69 người chết, 128 người bị thương. So với cùng kỳ năm 2012, số vụ tai nạn giao thông tăng 1 vụ, số người chết giảm 2 người. Nguyên nhân gây tai nạn giao thông chủ yếu do ý thức của người tham gia giao thông gây ra với các lỗi: vi phạm về làn đường, phần đường, chuyển hướng, vượt xe không đúng quy định, phóng nhanh, vượt ẩu, không làm chủ tốc độ, sử dụng rượu bia khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, không đội mũ bảo hiểm…
- Tình hình cháy nổ, vi phạm môi trường
+ Về số vụ cháy, nổ: Từ ngày 15/10/2013 đến ngày 15/11/2013, trên địa bàn tỉnh xảy ra 2 vụ cháy trên địa bàn huyện Cẩm Khê, giá trị thiệt hại ước tính 130 triệu đồng, nguyên nhân do người dân bất cẩn khi đun nấu trong sinh hoạt. Tính từ đầu năm đến hết ngày 15/11/2013, toàn tỉnh xảy ra 39 vụ cháy, 1 vụ nổ, giá trị thiệt hại ước tính khoảng 2,7 tỷ đồng (không kể thiệt hại vụ nổ của Xí nghiệp Z4 thuộc Nhà máy Z121 của Bộ Quốc phòng).
+ Vi phạm môi trường: theo đánh giá của ngành chức năng, tình hình chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường của các cơ sở trên địa bàn tỉnh tuy có chuyển biến song vẫn còn nhiều doanh nghiệp cố tình vi phạm cam kết bảo vệ môi trường. Từ ngày 15/10/2013 đến ngày 15/11/2013 trên địa bàn tỉnh phát hiện 4 vụ vi phạm môi trường (do không có bản cam kết về môi trường) tập trung trên địa bàn huyện Lâm Thao, tổng số tiền xử phạt 75 triệu đồng. Tính từ đầu năm đến hết 15/11/2013 trên địa bàn tỉnh phát hiện và xử lý 19 vụ vi phạm môi trường, tổng số tiền xử phạt là gần 600 triệu đồng.
Tóm lại, tình hình kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh tháng 11/2013 duy trì ổn định và phát triển. Sản xuất nông nghiệp tập trung cho gieo trồng các cây vụ Đông, phòng chống dịch bệnh trên đàn gia súc; sản xuất công nghiệp được quan tâm chỉ đạo song tốc độ tăng không cao so với tháng trước; hoạt động thương mại ổn định; chỉ số giá tiếp tục được kiềm chế; các ngành dịch vụ khác đảm bảo. Các lĩnh vực xã hội tiếp tục được duy trì.
Tuy nhiên, nền kinh tế được dự báo còn tiếp tục gặp khó khăn trong sản xuất, kinh doanh thời gian tới, trong khi chỉ còn 1 tháng là kết thúc năm 2013, do đó để thực hiện đạt kết quả cao nhất các mục tiêu kinh tế - xã hội năm 2013 đã đề ra các cấp, các ngành, địa phương tập trung thực hiện tốt 9 nhóm giải pháp lớn năm 2013 theo tinh thần Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 07/01/2013 của Chính phủ và chỉ đạo của Tỉnh uỷ, UBND tỉnh./.
[1] Các xã vùng thượng huyện Thanh Sơn rải rác xuất hiện gia súc, gia cầm bị bệnh tụ huyết trùng.
[2] TP.Việt Trì, huyện Hạ Hòa đã triển khai tiêm phòng dịch bệnh đợt I, trong đó: trâu, bò 14.342 con; lợn 16.055 con; chó 3.748 con;…
[3] Sản xuất tăng cao so với tháng trước là do Công ty giấy Bãi Bằng tháng 10/2013 đóng máy để sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị chỉ sản xuất 20 ngày nên sản lượng sản xuất đạt thấp;
[4] SX tăng so với tháng trước cũng như tháng cùng kỳ là do phần lớn các doanh nghiệp sản xuất xi măng đều có sản lượng tăng;
[5] SX tăng cao là do Công ty cổ phần Pin Ắc qui Vĩnh Phú đã có đơn hàng mới là sản xuất ắc qui xe đạp điện do đó sản phẩm tiêu thụ đạt ở mức cao nhất trong các tháng từ đầu năm đến nay.
[6] Chủ yếu là do thời tiết chuyển mùa đông, lượng bia tiêu thụ giảm nên sản lượng SX giảm;
[7] Doanh thu hoạt động lưu trú - ăn uống 181,4 tỷ đồng, chiếm 11,5% tăng 1% và doanh thu từ các hoạt động kinh doanh dịch vụ 98,7 tỷ đồng, chiếm 6,3%, tăng 1%;
[8] Trong đó nhóm hiếu, hỉ tăng 4,59%;
[9] Nhóm nhà ở tăng 1,06%, cát xây dựng tăng 11,78%, nước sinh hoạt và dịch vụ nước tăng 0,3% (riêng dịch vụ nước sinh hoạt tăng 2,64%); gas và chất đốt khác tăng 1,28%;
[10] Thịt gia súc tươi sống tăng 1,26%; các loại đậu và hạt tăng 0,42%; quả tươi chế biến tăng 1,73%; đồ gia vị tăng 1,12%;
[11] Thuốc và thiết bị y tế tăng 0,39% (riêng thuốc các loại tăng 0,39%); dịch vụ khám sức khoẻ tăng 0,15%;